Hiện nay, nhiều nước đã và đang
tích cực thực hiện các hoạt động để nâng cao khả năng sẵn sàng cho công nghiệp
4.0. Đơn cử, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra thông qua nhiều diễn đàn
của Đại hội đối tác toàn cầu của Viện Đào tạo nghề Liên bang Đức (BIBB) đó là,
trong bối cảnh nền kinh tế số và công nghiệp 4.0 cần thiết phải xây dựng các
năng lực số cho các nhóm đối tượng mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là người
dạy và người học. Hiện nay, Châu Âu đã có Khung năng lực số cho công dân nói
chung (European Digital
Competence Framework) và cho các nhà giáo dục/ sư
phạm nói riêng (European Framework for the Digital Competence of
Educators).
Giáo dục đào tạo nói chung và
giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam nói riêng cũng phải đưa ra những chiến lược và
biện pháp cụ thể nhằm đối phó với những thách thức trong phát triển kỹ năng,
giáo dục và đào tạo đồng thời tận dụng các cơ hội to lớn do công nghiệp 4.0
mang lại. Một số giải pháp bao gồm:
- Đánh giá nhu cầu kỹ năng
trong tương lai. Cho đến nay vẫn còn thiếu các quan sát, đánh giá cụ thể ở từng
ngành nghề và sự khác biệt cần thiết trong bối cảnh công nghiệp 4.0. Hầu hết
các yêu cầu về trình độ và kỹ năng của người lao động còn chung chung, phần lớn
chỉ mới đề cập đến các năng lực xã hội và năng lực chung cùng với yêu cầu nhiều
hơn về kỹ năng công nghệ thông tin. Do đó cần phải có những nghiên cứu, khảo
sát để xác định các nhu cầu kỹ năng ở từng ngành nghề cụ thể.
- Hợp tác, liên kết giữa hệ
thống đào tạo với các khu vực tư nhân (như tăng cường đào tạo tại doanh
nghiệp), tạo điều kiện để sinh viên học tập kinh nghiệm, thực tập, thực hành và
đạt các kỹ năng mềm chứ không chỉ có kiến thức lý thuyết.
- Thành lập các hội đồng kỹ
năng ngành để thực hiện nghiên cứu, dự báo sự phát triển nghề nghiệp, các yêu
cầu kỹ năng và phối hợp xây dựng chương trình, nội dung đào tạo nghề nghiệp.
- Xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng
nghề và tiêu chuẩn đào tạo thích ứng theo phát triển công nghệ. Thiết kế chương
trình đào tạo linh hoạt, một mặt đáp ứng tiêu chuẩn đầu ra của nghề, mặt khác,
tạo sự liên thông giữa các trình độ trong một nghề và giữa các nghề.
- Thay đổi phương pháp đào tạo
trên cơ sở lấy người học làm trung tâm và ứng dụng công nghệ thông tin triển
khai đào tạo trên môi trường mạng, đặc biệt là đào tạo trực tuyến mở dành cho
đại chúng MOOCs (Massive Online Open Courses). Cùng với đó là sự đổi mới căn
bản hình thức và phương pháp kiểm tra đánh giá theo hướng đáp ứng năng lực hành
nghề và tính sáng tạo của người học.
- Cập nhật nâng cao kỹ năng
hoặc tái tạo kỹ năng cho người lao động, chú trọng phát triển giáo dục STEM.
Mặt trái của công nghiệp 4.0 cũng được xác định là những vấn đề dễ bị lạm dụng
như xâm phạm đời tư, an ninh mạng, vi phạm bản quyền, sở hữu trí tuệ. Điều này
đòi hỏi hệ thống giáo dục và đào tạo cần tăng cường giáo dục đạo đức, trách
nhiệm công dân thích ứng với công nghiệp 4.0.
- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu
khoa học, chuyển giao công nghệ trong đào tạo và quản lý đào tạo, các giải pháp
công nghệ thông tin và hợp tác doanh nghiệp quốc nội và quốc tế - cơ chế đảm
bảo sự linh hoạt và thích ứng của giáo dục nghề nghiệp và phát triển kỹ năng.
- Tăng cường hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp như nghiên cứu khoa học, trao đổi học
thuật; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý; quản trị nhà trường… đồng
thời thu hút và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư và chuyên gia nước ngoài tham
gia đào tạo nghề nghiệp cho lao động Việt Nam.
Có thể nói, để đáp ứng được yêu
cầu của thời đại, nước ta cần có những chính sách, chiến lược nâng cao chất
lượng giáo dục nghề nghiệp và phát triển kỹ năng một cách đầy đủ ý nghĩa linh
hoạt, mở và thích ứng.
Phòng Quản lý Lao động
(Diza)