Thậm chí, có trường hợp chính sách trao quyền tuỳ nghi quá lớn
cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận, tạo cơ hội cho tham nhũng tiêu cực...
Phòng Thươg mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản hồi âm công văn của Uỷ ban Kinh tế
của Quốc hội về chính sách và thực trạng ưu đãi đầu tư tại Việt Nam.
Theo VCCI thì các
chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong thu hút đầu tư của Việt
Nam là rất hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Nhờ có chính sách thuế ưu đãi
hấp dẫn cùng với giá công nhân và năng lượng thấp, Việt Nam trong thời gian qua
đã thu hút được lượng lớn FDI. Đến tháng 6/2018, tổng vốn đăng ký đạt 331,2 tỷ
USD và vốn giải ngân lũy kế khoảng 180,7 tỷ USD.
Tuy nhiên, vẫn tồn
tại những bất cập trong thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam như: tỷ lệ dự án sử
dụng công nghệ cao còn thấp, chưa thu hút được công nghệ nguồn, chưa có sự bứt
phá trong xu thế thu hút sử dụng FDI.
Các dự án chỉ mới
tập trung khai thác tài nguyên, thị trường, lắp rắp, gia công sử dụng nhiều lao
động, tiêu tốn năng lượng); tác động lan tỏa từ khu vực FDI đến doanh nghiệp
trong nước còn hạn chế, công tác quản lý nhà nước còn bất cập (chuyển giá, lao
động..)
Đề xuất hoàn thiện
chính sách, pháp luật về ưu đãi đầu tư trong thời gian tới, VCCI nêu 5 vấn đề.
Thứ nhất, mối quan hệ giữa chính sách ưu đãi đầu
tư và chính sách kinh tế ngành.
VCCI cho rằng, đối
với các doanh nghiệp đầu tư trong một ngành, lĩnh vực thì các quy định quản lý
ngành sẽ ảnh hưởng đến quyết định đầu tư hơn là các quy định về ưu đãi. Do đó,
để thu hút đầu tư vào một ngành, lĩnh vực thì trước tiên cần tạo thuận lợi cho
các nhà đầu tư thông qua việc dỡ bỏ rào cản gia nhập ngành, minh bạch hoá thông
tin chính sách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, cải thiện cơ sở hạ tầng trước
khi phải sử dụng đến biện pháp ưu đãi đầu tư.
Ví dụ: khi Nhà
nước muốn khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu và phát
triển (R&D) thì cần có kế hoạch, chiến lược để bảo hộ sáng chế, đảm bảo
thực thi các quy định quyền sở hữu trí tuệ trước khi tính đến việc ưu đãi đầu
tư.
Thứ hai, đánh giá tác động trong quá trình ban
hành chính sách ưu đãi đầu tư.
Quan điểm của VCCI
là khi xây dựng các chính sách ưu đãi đầu tư thì cần phải đánh giá cả tác động
tích cực và tiêu cực, chú trọng sử dụng phương pháp định lượng. Trong thời gian
qua, có tình trạng các cơ quan đề xuất chính sách ưu đãi chỉ tập trung vào việc
trình bày những tác động tích cực của chính sách như giúp phát triển kinh tế
địa phương, hoặc tăng vốn đầu tư vào một ngành nghề cụ thể.
Tuy nhiên, các tác
động tiêu cực về ngân sách, về giảm đầu tư ở nơi khác hoặc tác động tiêu cực về
môi trường, cạnh tranh thì thường không được đề cập trong quá trình xây dựng
chính sách.
Do đó, cần tiến
tới đặt ra nguyên tắc rằng nếu đề xuất chính sách ưu đãi đầu tư nào mà không
thể hiện đầy đủ và rõ nét các tác động tiêu cực thì phải được hạn chế trong quá
trình thẩm định, thẩm tra và thông qua.
Thứ ba, về tính minh bạch về điều kiện và thủ
tục hưởng ưu đãi.
Nhận định của VCCI
là thời gian qua có tình trạng một số chính sách ưu đãi được ban hành nhưng
không có quy định hoặc quy định không minh bạch về điều kiện và thủ tục để được
hưởng ưu đãi. Điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp gặp khó khăn vướng mắc
trong việc xin xác nhận đối tượng được hưởng ưu đãi.
Thậm chí, có
trường hợp chính sách trao quyền tuỳ nghi quá lớn cho cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác nhận, tạo cơ hội cho tham nhũng tiêu cực, doanh nghiệp phải chung chi
để được xác nhận đủ điều kiện được ưu đãi. Kết quả là chính sách ưu đãi không
phát huy được tác dụng, làm nản lòng những doanh nghiệp muốn đầu tư vào những
lĩnh vực được khuyến khích, VCCI nhấn mạnh.
Do đó, các chính
sách ưu đãi cần hết sức chú ý đến việc bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng về điều
kiện, tiêu chí, thủ tục để được hưởng ưu đãi, VCCI góp ý.
Thứ tư, cần xác định thời hạn đối tượng được
hưởng các chính sách ưu đãi.
Với góp ý này,
VCCI phân tích, việc ưu đãi có thể được coi là biện pháp "mồi", nhằm
tạo lập, thu hút nhà đầu tư trong một giai đoạn nhất định. Sau một thời gian,
nếu lĩnh vực, địa bàn đó đã có làn sóng đầu tư tốt, thì cần giảm bớt chính sách
ưu đãi; nếu lĩnh vực, địa bàn đó không có nhiều nhà đầu tư thì tức là biện pháp
ưu đãi không hiệu quả, cần được nâng cấp hoặc điều chỉnh cho phù hợp hơn.
Chính vì thế nên
đưa ra một nguyên tắc rằng các quy định về ưu đãi đầu tư chỉ có hiệu lực trong
tối đa 5 năm kể từ khi ban hành (tức là chỉ áp dụng cho những dự án được cấp
phép đầu tư hoặc bắt đầu nộp hồ sơ xin cấp phép đầu tư trong thời hạn đó).
Sau 5 năm, biện
pháp ưu đãi đầu tư phải được gia hạn, hoặc nếu không sẽ tự động hết hiệu lực,
không áp dụng cho các dự án mới nữa. Lưu ý, biện pháp ưu đãi có thể kéo dài hơn
thời gian đó (ví dụ như miễn thuế 4 năm, giảm thuế trong 9 năm).
Thứ năm, cần gắn việc xây dựng chính sách ưu đãi
đầu tư có sử dụng ngân sách với quá trình xây dựng kế hoạch, dự toán ngân sách.
Theo VCCI, hiện
nay có tình trạng tách biệt giữa xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư với việc xây
dựng kế hoạch ngân sách. Nhiều chính sách ưu đãi đầu tư dàn trải, lãng phí, gây
xói mòn cơ sở thu ngân sách, dẫn đến việc Nhà nước buộc phải tăng thu từ những
nguồn khác, gây phản ứng trong xã hội.
Có thể tính đến
giải pháp đưa những nội dung chung, mang tính nguyên tắc, về tổng chi/giảm thu
cho ưu đãi đầu tư vào trong dự toán ngân sách. Các chính sách ưu đãi cụ thể
không được phép vượt quá nguyên tắc và tổng chi/giảm thu đó, VCCI nêu quan
điểm.
(Theo VNEconomy)