Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 15/11/2018; có hiệu lực
thi hành từ ngày 1/7/2020.
Theo quy định của Luật, bí mật nhà nước
có ba thuộc tính cơ bản: Bí mật nhà nước là thông tin quan trọng; là thông tin
chưa được công khai, nếu bị lộ, bị mất sẽ gây nguy hại đến quốc gia, dân tộc;
phải được người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định theo quy định
của Luật này. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định hình thức chứa bí mật nhà nước,
bao gồm tài liệu, vật, địa điểm, lời nói, hoạt động hoặc các dạng khác.
Phạm vi bí mật nhà nước là giới hạn
thông tin quan trọng chưa công khai, nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến
lợi ích quốc gia, dân tộc trong các lĩnh vực như:
- Thông tin về lao động, xã hội: Chiến
lược, kế hoạch, đề án về cải cách tiền lương, BHXH; Tình hình phức tạp về lao động,
trẻ em, tệ nạn xã hội, bình đẳng giới;
- Thông tin về y tế, dân số: Thông
tin bảo vệ sức khỏe lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước; Quy trình sản xuất dược
liệu, thuốc sinh học quý hiếm;
- Thông tin về giáo dục và đào tạo: Đề
thi, đáp án và thông tin liên quan đến tổ chức kỳ thi cấp quốc gia;
- Thông tin về người thuộc Quân đội,
Công an, Cơ yếu được cử đi đào tạo trong và ngoài nước,…
Luật quy định thời hạn bảo vệ đối với
bí mật nhà nước độ Tuyệt mật là 30 năm, độ Tối mật là 20 năm, độ Mật là 10 năm,
đây là quy định tiến bộ của Luật nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công
dân. Luật cũng quy định khi hết thời hạn bảo vệ, nếu xét thấy việc giải mật gây
nguy hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc thì người đứng đầu cơ quan, tổ
chức xác định bí mật nhà nước quyết định gia hạn thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước,
mỗi lần gia hạn không quá thời hạn bảo vệ nêu trên.
Luật Bảo vệ bí mật nhà nước có hiệu lực
từ ngày 01/7/2020, trừ quy định về lập, thẩm định, ban hành danh mục bí mật nhà
nước, thời hạn bảo vệ, gia hạn thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước có hiệu lực từ
01/01/2019.
Văn phòng Ban