Sáng
ngày 20/11/2019, với 90,06% đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành,
Quốc hội đã thông qua Bộ Luật Lao động (sửa đổi) năm 2019 với nhiều nội dung
liên quan đến người lao động. Cụ thể:
Về thời giờ làm việc bình thường (Điều 105) quy định: Thời giờ làm việc bình
thường không quá 08 giờ trong 01 ngày và không quá 48 giờ trong 01 tuần.
Người sử dụng lao động có
quyền quy định thời giờ làm việc theo ngày hoặc tuần nhưng phải thông báo cho
người lao động biết; trường hợp theo tuần thì thời giờ làm việc bình thường
không quá 10 giờ trong 01 ngày và không quá 48 giờ trong 01 tuần.
Nhà nước khuyến khích người
sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ đối với người lao động.
Người sử dụng lao động có
trách nhiệm bảo đảm giới hạn thời gian làm việc tiếp xúc với yếu tố nguy hiểm,
yếu tố có hại đúng theo các quy chuẩn kỹ thuật có liên quan.
Về làm thêm giờ (Điều 107): Thời gian làm thêm giờ là khoảng thời
gian làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường theo quy định của pháp luật,
thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động.
Người sử dụng lao động được
sử dụng người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau đây:
Phải được sự đồng ý của người
lao động; Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm
việc bình thường trong 01 ngày; trường hợp áp dụng quy định thời giờ làm việc
bình thường theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm
không quá 12 giờ trong 1 ngày; không quá 40 giờ trong 1 tháng;
Bảo đảm số giờ làm thêm của
người lao động không quá 200 giờ trong 1 năm, trừ trường hợp quy định tại khoản
3 Điều này.
Người sử dụng lao động được
sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong 01 năm trong một số
ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp sau đây:
Sản xuất, gia công xuất khẩu
sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm
nghiệp, thủy sản;
Sản xuất, cung cấp điện, viễn
thông, lọc dầu; cấp, thoát nước;
Trường hợp giải quyết công
việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao mà thị trường lao động
không cung ứng đầy đủ, kịp thời;
Trường hợp phải giải quyết
công việc cấp bách, không thể trì hoãn, do tính chất thời vụ, thời điểm của
nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách
quan không dự liệu trước do hậu quả thời tiết, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn,
thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất;
Trường hợp khác do Chính phủ
quy định.
Về tuổi nghỉ hưu (Điều 169): Người lao động bảo đảm điều kiện
về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã
hội được hưởng lương hưu khi đủ tuổi nghỉ hưu.
Tuổi nghỉ hưu của người lao
động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến
khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động
nữ vào năm 2035.
Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu
của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng
đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi
năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam và 4 tháng đối với lao động nữ.
Người lao động bị suy giảm
khả năng lao động; làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;
làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không
quá 05 tuổi so với quy định tại khoản 2 Điều này tại thời điểm nghỉ hưu, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Người lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao và một số trường hợp đặc biệt có thể nghỉ hưu ở tuổi
cao hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định tại thời điểm nghỉ hưu, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Phòng
Quản lý Lao động (Diza)