Theo đó, Nghị định số 35/2020/NĐ-CP quy định chi tiết
một số điều của Luật Cạnh tranh như:
- Đánh giá tác động hoặc khả năng
gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh:
Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đánh giá tác động hoặc khả
năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 và 4 Điều 12 của Luật Cạnh
tranh.
Việc đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn
chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được căn cứ một
số yếu tố: Diễn biến, xu hướng thay đổi mức thị phần của các doanh nghiệp tham
gia thỏa thuận được đánh giá trong tương quan với các doanh nghiệp khác là đối
thủ cạnh tranh không tham gia thỏa thuận; Rào cản gia nhập, mở rộng thị
trường được đánh giá để xác định tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh
tranh của thỏa thuận căn cứ vào những yếu tố ảnh hưởng đến việc quyết định của doanh
nghiệp khi gia nhập, mở rộng thị trường quy định tại Điều 8 Nghị định 35/2020/NĐ-CP;
Tăng chi phí, thời gian của khách hàng trong việc mua hàng hóa, dịch vụ của
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hoặc khi chuyển sang mua hàng hóa, dịch vụ
liên quan khác được xác định bằng việc so sánh chi phí, thời gian cần thiết của
khách hàng khi mua hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hoặc
khi chuyển sang mua hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh
trước và sau khi có thỏa thuận;…
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được coi là không gây ra
hoặc không có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể nếu thuộc
một trong các trường hợp sau: Đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan, khi thị phần kết hợp của các
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận nhỏ hơn 5%; Đối với thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh & các công đoạn khác nhau trong
cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ
nhất định, khi thị phần của từng doanh nghiệp tham gia thỏa thuận nhỏ hơn 15%.
- Tập trung kinh tế:
Các doanh nghiệp dự định tham gia tập trung kinh tế, phải
thông báo cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trước khi thực hiện tập trung kinh tế
nếu thuộc trong một trong các trường hợp sau:
+ Tổng tài sản trên thị trường Việt Nam của doanh nghiệp
hoặc nhóm doanh nghiệp liên kết mà doanh nghiệp đó là thành viên đạt 3.000 tỷ đồng
trở lên trong năm tài chính liền kề trước năm dự kiến thực hiện tập trung kinh
tế.
+ Tổng doanh thu bán ra hoặc doanh số mua vào trên thị
trường Việt Nam của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp liên kết mà doanh nghiệp
đó là thành viên đạt 3.000 tỷ đồng trở lên trong năm tài chính liền kề trước
năm dự kiến thực hiện tập trung kinh tế.
+ Giá trị giao dịch của tập trung kinh tế từ 1.000 tỷ
đồng trở lên;
+ Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp dự định tham
gia tập trung kinh tế từ 20% trở lên trên thị trường liên quan trong năm tài
chính liền kề trước năm dự kiến thực hiện tập trung kinh tế.
Thẩm định sơ bộ việc tập trung kinh tế: Trong thời hạn
30 ngày kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ thông báo tập trung kinh tế đầy đủ, hợp lệ, Ủy
ban Cạnh tranh Quốc gia ra thông báo kết quả thẩm định sơ bộ việc tập trung
kinh tế.
- Nghị định có hiệu lực ngày 15/5/2020.
Chi tiết Nghị
định số 35/2020/NĐ-CP NĐ 35.pdf