Thực
hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo gồm 9 chương, 68 điều quy định về
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ
chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến
hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo.
Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, Luật cụ thể
hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 "Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào."
Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực
hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập, thực hành giáo lý,
giáo luật tôn giáo; quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn
giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo.
Đối với người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học
tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Chức
sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo,
truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.
Đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của
pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù;
người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín
ngưỡng, tôn giáo, Luật giao Chính phủ quy định chi tiết việc bảo đảm thực hiện
các quyền của các đối tượng này.
Hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa gồm 35 điều, chia thành 4
chương. Luật quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm: doanh nghiệp siêu nhỏ,
doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình
quân năm không quá 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí: Tổng nguồn vốn
không quá 100 tỷ đồng; tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ
đồng. Doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa được xác định
theo lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp và xây dựng;
thương mại và dịch vụ.
Hỗ trợ chung cho doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm: về tín dụng;
về thuế, kế toán; về mặt bằng sản xuất; công nghệ, cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ
thuật, khu làm việc chung; mở rộng thị trường; về thông tin, tư vấn và pháp lý;
phát triển nguồn nhân lực.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo được hỗ trợ nếu đáp
ứng các điều kiện: có thời gian hoạt động không quá 05 năm kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; chưa thực hiện chào bán chứng
khoán ra công chúng đối với công ty cổ phần.
Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách cấp bù lãi
suất đối với khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Việc
cấp bù lãi suất được thực hiện thông qua các tổ chức tín dụng.
Quản lý ngoại thương phù
hợp với điều kiện hội nhập
Theo quy định của Luật Quản lý ngoại thương, hàng hóa thuộc một
trong các trường hợp sau bị áp dụng biện pháp cấm nhập khẩu Liên quan đến
quốc phòng, an ninh chưa được phép nhập khẩu của cơ quan nhà nước; gây nguy hại
đến sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng; gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an
toàn, đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục; gây nguy hại đến môi trường, đa dạng
sinh học, có nguy cơ cao mang theo sinh vật gây hại, đe dọa an ninh lương thực,
nền sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, theo
Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Luật cũng quy định hàng hóa bị cấm xuất khẩu trong các trường
hợp: Liên quan đến quốc phòng, an ninh chưa được phép xuất khẩu của cơ quan nhà
nước; bảo vệ di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia theo quy định của pháp luật về di
sản văn hóa, theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Bộ Công Thương có trách nhiệm kiểm tra, hướng dẫn kiểm tra việc
cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa và việc tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa
xuất khẩu của thương nhân. Bộ Tài chính có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan hải quan
kiểm tra xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu khi thực hiện thủ tục hải quan
theo quy định của pháp luật về hải quan.
Luật quy định biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam là biện pháp được áp dụng trong trường hợp hàng hóa được xác
định bị bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam gây ra thiệt hại đáng kể hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự
hình thành của ngành sản xuất trong nước. Luật gồm 8 chương, 113 điều.
Khai thác, sử dụng tài sản
công có hiệu quả
Luật Quản lý, sử dụng tài sản công có 10 chương, 134 điều, quy
định về quản lý nhà nước đối với tài sản công; chế độ quản lý, sử dụng tài sản
công; quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong việc
quản lý, sử dụng tài sản công.
Luật quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tài sản
công. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện nhiệm
vụ này. Tuy nhiên, theo từng loại tài sản công, nhiệm vụ của Bộ Tài chính và
các bộ, cơ quan Trung ương liên quan có sự phân định cụ thể.
Quy định về hệ thống và cơ sở quốc gia về tài sản công, Luật thể
hiện trọng tâm là hoàn thiện Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công hiện có,
gắn với việc mở rộng phạm vi theo hướng kết nối với các cơ sở dữ liệu về tài
sản chuyên ngành nhằm bảo đảm tính bao quát thống nhất; việc tổ chức vận hành
thông suốt, an ninh, an toàn, chi phí thấp.
Cơ sở này sẽ là kênh cung cấp thông tin tổng hợp quan trọng về
tài sản công, đặc biệt là tổng nguồn lực tài sản công, làm cơ sở để các cơ quan
nhà nước trong quá trình điều hành vĩ mô, điều hành ngân sách nhà nước, phục vụ
Chính phủ điện tử.
Bảo vệ quyền, lợi ích của
khách du lịch
Luật Du lịch sửa đổi đã được rút gọn xuống còn 9 chương, 78
điều, giảm 2 chương, 10 điều so với Luật Du lịch năm 2005 nhằm thúc đẩy du lịch
phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động du lịch; tạo điều kiện thuận lợi, môi
trường cạnh tranh lành mạnh cho doanh nghiệp du lịch; tăng cường tính chuyên
nghiệp của hoạt động hướng dẫn; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của khách du
lịch.
Luật bổ sung thêm điều kiện đảm bảo quy chuẩn đối với loại cơ sở
lưu trú du lịch do Bộ trưởng Văn hóa - Thể thao và Du lịch ban hành. Quy chuẩn
này sẽ quy định những điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật và người
lao động đối với từng loại cơ sở lưu trú du lịch nhằm bảo vệ quyền lợi của
khách du lịch, đảm bảo chất lượng dịch vụ lưu trú.
Việc xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch được thực hiện theo nguyên
tắc tự nguyện. Theo đó, các tổ chức, cá nhân kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch
được tự nguyện đăng ký xếp hạng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Khách sạn, biệt thự du lịch, căn hộ du lịch, tàu thủy lưu trú du
lịch được xếp hạng theo tiêu chuẩn quốc gia về xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch,
công bố chất lượng dịch vụ công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng
cũng như đưa vào cơ sở dữ liệu xúc tiến du lịch quốc gia.
Hạng cơ sở lưu trú du lịch bao gồm 1 sao, 2 sao, 3 sao, 4 sao và
5 sao. Tổng cục Du lịch thẩm định, công nhận cơ sở lưu trú du lịch hạng 4 sao
và hạng 5 sao. Cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh thẩm định, công nhận cơ
sở lưu trú du lịch hạng 1 sao, hạng 2 sao và hạng 3 sao.
Việc công nhận này được coi như một chứng nhận
về chất lượng. Sau khi đăng ký và được xếp hạng, cơ sở sẽ được giới thiệu,
quảng bá rộng rãi trong các hoạt động xúc tiến du lịch quốc gia và địa phương.
-VPB-