Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội cho biết theo quy định tại Nghị định số 05/2015/NĐ-CP thì thời
gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian
người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người
lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời
gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc. Trong
đó, thời gian người lao động làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao
gồm cả thời gian thử việc, học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao
động; thời gian nghỉ hưởng chế độ theo quy định của Luật BHXH, thời gian nghỉ
hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên không hưởng tiền
lương tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp BHXH.
Tuy nhiên, quy định về cách tính thời gian người lao động làm
việc thực tế cho người sử dụng lao động đang bộc lộ một số vướng mắc, khó khăn
khi tính trợ cấp thôi việc cho người lao động, vì các lý do sau:
- Thời gian người lao động thử việc, học nghề, tập nghề để làm
việc cho người sử dụng lao động và thời gian người lao động nghỉ việc hưởng chế
độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên không hưởng tiền lương
tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp BHXH thì người lao động không thuộc đối tượng
tham gia đóng BHTN theo Điều 11 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của
Chính phủ.
- Dù thời gian người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản
không thuộc đối tượng tham gia đóng BHTN nhưng thời gian này được tính là đã
đóng BHXH, theo đó đối với giai đoạn trước khi Luật Việc làm có hiệu lực thi
hành thì thời gian nghỉ thai sản được tính là thời gian đã tham gia BHTN theo
Luật BHXH năm 2006.
- Thời gian này thường ngắn (từ 1 - 6 tháng), khi tính trợ cấp
thôi việc thường phải làm tròn thành nửa năm, gây vướng mắc cho người sử dụng
lao động, đồng thời làm tăng chi phí của doanh nghiệp khi chi trả trợ cấp thôi
việc cho người lao động, trong khi phần lớn thời gian người lao động thực tế
làm việc đã được người sử dụng lao động tham gia đóng BHTN.
Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề xuất sửa đổi thời gian tính trợ cấp thôi
việc theo hướng thời gian làm việc thực tế cho người lao động không bao gồm:
thời gian thử việc, học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động;
thời gian nghỉ hưởng chế độ theo quy định của Luật BHXH để tạo điều kiện cho doanh
nghiệp khi giải quyết chế độ trợ cấp thôi việc cho người lao động.
Cụ thể, theo dự thảo, thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi
việc, trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế
cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia BHTN
theo quy định của pháp luật và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao
động chi trả trợ cấp thôi việc. Trong đó, thời gian người lao động đã làm việc
thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm: thời gian người lao động đã làm
việc cho người sử dụng lao động; thời gian được người sử dụng lao động cử đi
học được hưởng nguyên lương; thời gian nghỉ hàng tuần theo Điều 110, nghỉ việc
hưởng nguyên lương theo Điều 111, Điều 112, Điều 115 và Khoản 1 Điều 116 của Bộ
Luật Lao động; nghỉ để hoạt động Công đoàn theo quy định của pháp luật về Công
đoàn; thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động;
thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc và thời gian bị tạm giữ, tạm giam
nhưng được trở lại làm việc do được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận
không phạm tội.
Thời gian người lao động đã tham gia BHTN bao gồm: Thời gian người
lao động đã đóng BHTN theo quy định của pháp luật và thời gian người lao động
được người sử dụng lao động chi trả cùng lúc với kỳ trả lương một khoản tiền
tương đương với mức đóng BHTN theo quy định của pháp luật. Thời gian làm việc
để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm của người lao động được tính
theo năm, trường hợp có tháng lẻ thì từ đủ 1 tháng đến dưới 6 tháng được tính
bằng 1/2 năm; từ đủ 6 tháng trở lên được tính bằng 1 năm làm việc.
Phòng Quản lý Lao động
(Diza)