Ngày
10/4/2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2019/NĐ-CP về việc quy định chi
tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo. Trên cơ sở kế thừa
các quy định của Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012, Nghị định số 31/2019/NĐ-CP
có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Luật Tố cáo 2018.
Liên quan việc gia hạn giải quyết tố cáo được
áp dụng đối với vụ việc phức tạp và đặc biệt phức tạp theo quy định tại khoản 2
và khoản 3 Điều 30 Luật Tố cáo, Nghị định quy định:
Vụ việc phức tạp là vụ việc có một trong các tiêu chí sau: (1) Tố cáo về một nội
dung nhưng phải xác minh từ 02 địa điểm trở lên; (2) Tố cáo có từ 02 nội dung
phải xác minh trở lên; (3) Nhiều người tố cáo về cùng một nội dung hoặc nội
dung tố cáo liên quan đến quyền và lợi ích của nhiều người; (4) Tố cáo có yếu tố
nước ngoài: người tố cáo ở nước ngoài hoặc là người nước ngoài; hành vi bị tố
cáo xảy ra ở nước ngoài; nội dung tố cáo phải xác minh ở nước ngoài; (5) Nội dung
tố cáo liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức; (6) Các cơ
quan, tổ chức có liên quan trong quá trình giải quyết tố cáo còn ý kiến khác
nhau; (7) Có tài liệu, chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thời gian kiểm tra,
xác minh, đánh giá hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn. Vụ việc đặc
biệt phức tạp là vụ việc có từ 02 tiêu chí được quy định là vụ việc phức tạp trở
lên.
Liên quan nội dung bảo vệ người tố
cáo, Nghị định quy định cụ thể: Trách nhiệm của người giải
quyết tố cáo khi nhận được văn bản đề nghị áp dụng các biện pháp bảo vệ, theo
đó: khi nhận được văn bản đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ (gọi tắt là đề nghị
bảo vệ) của người tố cáo thì người giải quyết tố cáo có trách nhiệm xem xét,
đánh giá căn cứ, tính xác thực của đề nghị bảo vệ và quyết định áp dụng biện
pháp bảo vệ theo thẩm quyền quy định tại Điều 52 Luật Tố cáo. Trường hợp không
thuộc thẩm quyền thì đề nghị hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện
pháp bảo vệ. Trường hợp khẩn cấp, người giải quyết tố cáo đề nghị hoặc yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ ngay lập tức, sau đó gửi văn bản
đến cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Trách nhiệm của cơ quan được
đề nghị hoặc yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ: khi nhận được đề nghị hoặc yêu cầu
của người giải quyết tố cáo thì cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào chức năng, nhiệm
vụ của mình xem xét, quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ theo quy định tại Điều
52 Luật Tố cáo và thông báo bằng văn bản cho người giải quyết tố cáo, người được
bảo vệ.
Đồng thời, Nghị định quy định
nguyên tắc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm
pháp luật tố cáo: Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo,
người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật tố
cáo thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật theo quy định của
pháp luật và quy định tại Nghị định này hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường
hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật về trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước. Nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật
và quy định khác có liên quan được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử
lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Đối
với người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức biết rõ việc tố cáo là không
đúng sự thật nhưng vẫn tố cáo nhiều lần hoặc biết vụ việc đã được cơ quan, người
có thẩm quyền giải quyết đúng chính sách, pháp luật nhưng vẫn tố cáo nhiều lần
mà không có bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo; cưỡng ép, lôi kéo, kích động,
dụ dỗ, mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật; sử dụng họ tên của người khác để
tố cáo gây mất đoàn kết nội bộ hoặc ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động bình thường
của cơ quan, tổ chức, đơn vị thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý
kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nghị
định số 31/2019/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 28/05/2019, thay thế Nghị định
số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Tố cáo./.
Văn phòng Ban